Hướng dẫn sử dụng NotebookLM để tổng hợp cơ sở lý thuyết cho luận văn, nghiên cứu khoa học

Thạc Sĩ Khánh và nhóm đã tiến hành nhờ NotebookLM đọc các bài báo và tổng hợp lại cho mình, hôm nay sẽ chia sẻ kinh nghiệm đến cho các bạn để các bạn không quá mất nhiều thời gian cho việc tìm và phân loại cơ sở lý thuyết.

Tìm và tổng hợp cơ sở lý thuyết là một trong những bước khó và tốn thời gian nhất trong quá trình làm luận văn / nghiên cứu khoa học. Học viên phải đọc nhiều tài liệu, chọn lọc lý thuyết phù hợp, và sắp xếp theo logic học thuật. Bởi vì nếu không làm vậy, giáo viên sẽ hỏi các câu như là: anh chị lấy lý thuyết này từ đâu, đã có ai nghiên cứu chưa, kết quả các nghiên cứu trước ra sao? Nên trước khi có trí tuệ nhân tạo, việc này cũng khá mất thời gian.

Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo (AI), Thạc Sĩ Khánh và nhóm đã tiến hành nhờ NotebookLM  đọc các bài báo và tổng hợp lại cho mình. Bài sau đây là ví dụ dễ hiểu để bạn hoàn toàn có thể tăng tốc quá trình này nhờ công cụ NotebookLM – trợ lý nghiên cứu AI do Google phát triển.

NotebookLM là gì?

NotebookLM  là một trợ lý AI có khả năng “đọc hiểu” toàn bộ nội dung các tài liệu bạn cung cấp (PDF, Google Docs, Word…), sau đó trả lời các câu hỏi trong ngữ cảnh tài liệu đó, mà không tự chế nội dung như một số chatbot khác. Link sử dụng ở đây https://notebooklm.google.com . Nói cách khác là bạn tải nằm chục hàng trăm file lên, và NotebookLM sẽ đọc giúp, sau đó bạn cứ hỏi bất kì câu hỏi gì thì AI này sẽ trả lời giúp bạn. Ví dụ: tôi có thể tìm cơ sở lý thuyết này ở trang nào, của tác giả nào…

Điểm mạnh của NotebookLM:

  • Đọc và xử lý tài liệu dài lên đến hàng ngàn trang.
  • Cho phép so sánh nhiều tài liệu trong một workspace.
  • Trả lời chính xác các câu hỏi mang tính học thuật dựa trên nội dung đã cung cấp.
  • Không cần phải chuyển đổi ngôn ngữ – có thể sử dụng với tài liệu tiếng Anh hoặc tiếng Việt.

Tại sao nên dùng NotebookLM để tổng hợp cơ sở lý thuyết?

Các vấn đề học viên thường gặp:

  • Khó chọn lọc tài liệu phù hợp.
  • Tốn thời gian đọc hàng chục bài báo.
  • Thiếu kỹ năng viết tổng quan lý thuyết mạch lạc.
  • Dễ rơi vào sao chép mà không hiểu bản chất mô hình.

NotebookLM giải quyết bằng cách:

  • Xác định lý thuyết, mô hình Trích xuất từ tài liệu đã tải lên.
  • Tóm tắt nhanh phần quan trọng, trả lời tóm tắt theo yêu cầu.
  • So sánh mô hình giữa các bài, hỏi AI để liệt kê, đối chiếu giữa các tài liệu.
  • Sắp xếp logic phần lý thuyết, gợi ý trình tự viết và nhóm lý thuyết

Hướng dẫn sử dụng NotebookLM để tổng hợp cơ sở lý thuyết

Bước 1: Chuẩn bị tài liệu
Tìm và tải về các tài liệu phù hợp từ:Google Scholar ,Scopus,Semantic Scholar. Sau đó lưu thành file PDF hoặc dùng Google Docs. Nên chọn các bài báo chất lượng cao.
Bước 2: Tạo workspace và nạp tài liệu
Truy cập: https://notebooklm.google.com
Tạo workspace mới (tên gợi ý: “Cơ sở lý thuyết – luận văn Kiều hối, năng lực cạnh tranh và căn bệnh Hà Lan ở Việt Nam“)
Tải các tài liệu vào workspace

Bước 3: Bắt đầu đặt câu hỏi

Bạn có thể gõ những câu hỏi như:
“Có mô hình nghiên cứu nào trong tài liệu không? Trình bày chi tiết.”
“Tóm tắt phần liên quan đến Lý thuyết Căn bệnh Hà Lan (Dutch disease theory) ”
“Trong các bài tôi đã nạp, bài nào sử dụng thang đo Likert 5 điểm?”
“So sánh lý thuyết nền được dùng trong ba tài liệu gần nhất.”

Bạn có thể hỏi bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh. NotebookLM xử lý được cả hai.
Ví dụ thực tế
Đề tài: “Kiều hối, năng lực cạnh tranh và căn bệnh Hà Lan ở Việt Nam
Tải 10 bài báo liên quan vào NotebookLM.

1.The impact of remittances on economic growth An econometric model.pdf
2.Kiều hối và tỷ giá hối đoái Nghiên cứu thực nghiệm tại các thị trường mới nổi.pdf
3.Kiểm chứng tác động của kiều hối tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam dựa trên mô hình ARDL.pdf
4.Remittances and Competitiveness A Case Study of Vietnam.pdf
5.Workers’ Remittances and the Real Exchange Rate – A Paradox of Gfts.pdf
6.Remittances, Real Exchange Rate and the Dutch Disease in Asian Developing Countries.pdf
7.Remittances, Dutch Disease, and Competitiveness – A Bayesian Analysis.pdf
8.Impact of Remittances on Financial Development in Vietnam.pdf
9.Macroeconomic impact of remittances and the Dutch Disease in developing countries.pdf
10.The Impact of Remittance on Trade Balance The Case of Malaysia.pdf

Đặt câu hỏi:
“Bài nào sử dụng mô hình Căn bệnh Hà Lan?”
“Tóm tắt khái niệm …”
“Các nghiên cứu có sử dụng lý thuyết nào?”

Bài nào sử dụng mô hình Căn bệnh Hà Lan?

Trong vài phút, bạn đã xác định được mô hình, biến nghiên cứu, và định hướng viết phần lý thuyết – nhanh hơn gấp nhiều lần so với cách truyền thống.
Lưu ý khi dùng AI trong nghiên cứu

  • Không sao chép nguyên văn, AI hỗ trợ bạn hiểu và tóm tắt, nhưng bạn phải viết lại theo văn phong học thuật nhé.
  • Luôn kiểm tra lại nguồn do Dù AI trích dẫn đúng ngữ cảnh, vẫn cần đối chiếu với tài liệu gốc, vì không có gì chính xác , và chịu trách nhiệm cho bài của mình bằng mình chính bản thân mình.
  • Bạn vẫn là người quyết định mô hình phù hợp nhất.

Tóm lại
NotebookLM là trợ lý giúp tiết kiệm thời gian, nâng cao chất lượng phần tổng quan lý thuyết trong luận văn hoặc bài nghiên cứu. Khi kết hợp cùng các công cụ khác như ChatGPT, Scite.ai, hoặc Elicit, có thể rút ngắn thời gian lập mô hình nghiên cứu từ hàng tuần xuống chỉ còn vài ngày.

Phụ lục hỏi đáp bằng NotebookLM cho bài nghiên cứu ở trên.

Các bài pdf paper có thể tải tại đây để tiến hành thực hành với notebookLM: cslt

Các mô hình chính được đề cập

Chào bạn, tôi có thể trả lời bằng tiếng Việt theo yêu cầu của bạn.

Dựa trên các nguồn đã cung cấp, các mô hình chính được đề cập bao gồm cả các mô hình kinh tế lượng được sử dụng để phân tích thực nghiệm và các khung lý thuyết làm nền tảng cho nghiên cứu hoặc giải thích các hiện tượng được nghiên cứu.

Các mô hình kinh tế lượng được sử dụng để phân tích:

  • Một mô hình kinh tế lượng sử dụng dữ liệu bảng (panel data) đã được sử dụng để xem xét tác động của kiều hối đối với tăng trưởng kinh tế ở sáu quốc gia (Albania, Bulgaria, Macedonia, Moldova, Romania và Bosnia-Herzegovina) trong giai đoạn 1999 đến 2013. Mô hình này xác định tăng trưởng GDP là hàm của kiều hối từ người lao động (so với GDP), tổng mức đầu tư cố định, chi tiêu tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình, tỷ lệ nhập học, FDI, thương mại, tăng trưởng dân số, tỷ giá hối đoái thực và nợ chính phủ. Các phương pháp ước lượng bao gồm mô hình bảng hiệu ứng cố định gần đúng (quasi fixed-effects panel) với sai số chuẩn đã điều chỉnh phương sai không đồng nhất (heteroskedasticity-corrected standard errors) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (random-effects model) với sai số chuẩn bootstrap. Ước lượng OLS cũng được sử dụng.
  • Một mô hình hồi quy Bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS) sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian hàng năm từ 1990 đến 2015 đã được sử dụng để kiểm định tác động của kiều hối đối với cán cân thương mại của Malaysia. Mô hình này bao gồm kiều hối (tỷ lệ phần trăm GDP), tỷ giá hối đoái thực hiệu dụng (REER), hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), tăng trưởng GDP và lạm phát làm biến giải thích. Cùng loại mô hình hồi quy OLS này cũng được áp dụng sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian hàng năm từ 1990 đến 2015 để nghiên cứu tác động của kiều hối đến tỷ giá hối đoái thực hiệu dụng và năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Mô hình này bao gồm kiều hối (tỷ lệ phần trăm GDP), M2 (cung tiền), FDI, ODA, chi tiêu chính phủ (GOV) và lạm phát.
  • Một mô hình thực nghiệm sử dụng dữ liệu bảng đã được xây dựng để điều tra tác động của kiều hối đối với tỷ giá hối đoái thực tại 21 nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn 2001-2013. Mô hình này bao gồm sự thay đổi của tỷ giá hối đoái thực làm biến phụ thuộc, và sự thay đổi của kiều hối, tăng trưởng GDP thực, nợ nước ngoài và lạm phát làm biến giải thích. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp ước lượng GMM hệ thống (GMM-sys) để xử lý vấn đề nội sinh tiềm ẩn và kiểm định tính vững (robustness).
  • Mô hình tự hồi quy phân phối trễ (ARDL) đã được áp dụng để kiểm định tác động của dòng kiều hối lên tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam sử dụng dữ liệu hàng quý từ 1996 đến 2016. Mô hình này cho phép điều tra mối quan hệ phi tuyến (dạng chữ U ngược) giữa kiều hối và tăng trưởng bằng cách đưa biến kiều hối bình phương vào. Nó cũng xem xét vai trò điều tiết tiềm năng của phát triển tài chính (đại diện bởi M2) thông qua biến tương tác (REM*M2). Mô hình ARDL bao gồm các biến như chỉ số phát triển con người (HDI), độ mở thương mại (OPEN), chi tiêu chính phủ (GOV), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và lạm phát (CPI).
  • Một mô hình Vector tự hồi quy (VAR) đã được sử dụng để nghiên cứu tác động của kiều hối lên phát triển tài chính tại Việt Nam, sử dụng dữ liệu hàng quý từ 1996 đến 2010. Mô hình này bao gồm kiều hối (REM), tăng trưởng GDP (GDP), tăng trưởng tín dụng (GCREDIT), tăng trưởng tiền gửi (GDEP) và lãi suất cho vay (LER). Nghiên cứu đã sử dụng kiểm định Granger causality và hàm phản ứng xung (impulse response functions) để phân tích các mối quan hệ. Một mô hình Vector tự hồi quy (VAR) với dữ liệu bảng cũng được sử dụng để xem xét hiệu ứng Căn bệnh Hà Lan của sự phong phú tài nguyên thiên nhiên ở các nền kinh tế châu Á, kết hợp phân tích Granger causality và phản ứng xung. Ngoài ra, một mô hình Vector tự hồi quy (VAR) đã được sử dụng để phân tích bùng nổ khai thác mỏ ở Australia và Căn bệnh Hà Lan, tập trung vào mối quan hệ động giữa GDP khai thác mỏ, GDP sản xuất, GDP dịch vụ và tỷ giá hối đoái.
  • Mô hình hiệu chỉnh sai số vector (VECM) của Johansen đã được áp dụng cho phân tích thực nghiệm về tác động kinh tế vĩ mô của kiều hối và Căn bệnh Hà Lan ở Bangladesh. Phương pháp này kiểm định các mối quan hệ đồng liên kết (cointegrating relationships) để xác định các yếu tố quyết định tỷ giá hối đoái thực trong dài hạn.
  • Một mô hình Cân bằng tổng thể ngẫu nhiên động (DSGE) đã được sử dụng, ước lượng bằng phân tích Bayesian, để phân tích kiều hối, Căn bệnh Hà Lan và năng lực cạnh tranh, cụ thể với dữ liệu cho El Salvador. Mô hình này, dựa trên khung kinh tế phụ thuộc (dependent economy framework), bao gồm các tác nhân như hộ gia đình, các công ty trong khu vực hàng hóa giao thương và không giao thương, và các đơn vị đầu tư, đồng thời kết hợp các động cơ khác nhau cho việc gửi kiều hối.
  • Các phương pháp ước lượng bảng, bao gồm ước lượng Anderson-Hsiao (AH)ước lượng GMM 2 bước của Arellano và Bond (1991), đã được sử dụng để điều tra mối quan hệ giữa kiều hối từ người lao động, thể chế và tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia từ 1970-2003 và 1991-2003. Các nghiên cứu này sử dụng các mô hình với logarit của tỷ lệ kiều hối trên GDP và số mũ hai của nó.
  • Ước lượng cắt ngang và dữ liệu bảng tiêu chuẩn, bao gồm OLShiệu ứng cố định (fixed effects), đã được sử dụng trong các nghiên cứu kiểm tra mối quan hệ giữa kiều hối của người lao động và tăng trưởng GDP bình quân đầu người. Một số nghiên cứu đã sử dụng cách tiếp cận phương pháp GMM hệ thống (SGMM)biến công cụ (IV), bao gồm hồi quy OLS-IV và Fixed Effects-IV.
  • Một bài báo thực nghiệm sử dụng hồi quy 2SLS (Bình phương nhỏ nhất hai bước) và OLS đã kiểm tra vai trò của các yếu tố bên ngoài (thương mại và di cư) và bên trong (thể chế và địa lý) đối với phát triển kinh tế (logarit của GDP bình quân đầu người) sử dụng dữ liệu cắt ngang.

Các mô hình và khung lý thuyết được thảo luận:

  • Mô hình “kinh tế phụ thuộc” (dependent economy model), còn được gọi là mô hình Salter-Swan-Corden-Dornbusch, là một khung chuẩn trong lý thuyết thương mại quốc tế được sử dụng để phân tích tác động của sự bùng nổ trong một khu vực (như năng lượng hoặc khai thác mỏ) đối với các khu vực khác trong một nền kinh tế nhỏ và mở cửa. Mô hình này thường bao gồm hàng hóa giao thương và không giao thương và giải thích các hiện tượng như “hiệu ứng dịch chuyển nguồn lực” (resource movement effect), “hiệu ứng chi tiêu” (spending effect), và sự tăng giá của tỷ giá hối đoái thực (real exchange rate appreciation). Nó đóng vai trò là cơ sở cho các mô hình phức tạp hơn như mô hình DSGE.
  • Các mô hình lý thuyết về động cơ gửi kiều hối (remittance motivation) được thảo luận, bao gồm lòng vị tha (altruism), trao đổi (exchange, chẳng hạn như các thỏa thuận cho vay gia đình ngầm), thừa kế (inheritance) và các động cơ chiến lược (strategic motives). Các mô hình này cố gắng giải thích lý do người di cư gửi tiền về nhà.
  • Mô hình hàng hóa công đức (merit good model) của Becker được trình bày như một góc nhìn trao đổi tổng quát về động cơ gửi kiều hối, cho rằng người gửi có thể “mua” các dịch vụ hoặc hành động khác nhau từ người nhận ngoài các mặt hàng thị trường đơn thuần.
  • Một mô hình cân bằng tổng thể ngẫu nhiên động (stochastic dynamic general equilibrium – DSGE) được sử dụng để kiểm tra các hàm ý kinh tế vĩ mô của kiều hối và ảnh hưởng của chúng đối với các biến thực và danh nghĩa, cũng như chính sách tiền tệ và tài khóa tối ưu. Mô hình này bao gồm các tác nhân đại diện như hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ và người gửi kiều hối.
  • Khung tăng trưởng nội sinh (endogenous growth framework) được đề cập trong bối cảnh mô tả tiềm năng tăng trưởng của kiều hối.
  • Mô hình của Montiel được thảo luận, sử dụng các đường cân bằng bên ngoài (external balance loci) và cân bằng bên trong (internal balance loci) để xác định tỷ giá hối đoái thực cân bằng dài hạn.
  • Mô hình di cư theo giá kỹ năng (skill-price migration model) được thảo luận để giải thích các mô hình di cư dựa trên lợi tức tương đối từ kỹ năng ở quốc gia gốc và quốc gia đích.
  • Mô hình trọng lực (gravity model) của thương mại được đề cập như một kỹ thuật được áp dụng để phân tích tăng trưởng xuất khẩu, mặc dù không được chi tiết trong các nguồn đã cung cấp.
  • Định lý Stolper-Samuelson được tham chiếu liên quan đến lý thuyết thương mại và hàm ý của nó đối với giá yếu tố và tiền lương thực tế.
  • Lý thuyết Căn bệnh Hà Lan (Dutch disease theory) là một hiện tượng được thảo luận rộng rãi trên nhiều nguồn, được giải thích bằng các mô hình lý thuyết và kinh tế lượng, nơi các dòng ngoại tệ lớn đổ vào (như kiều hối hoặc doanh thu tài nguyên) có thể dẫn đến sự tăng giá của tỷ giá hối đoái thực và tác động tiêu cực đến các khu vực xuất khẩu truyền thống như sản xuất.

Bài nào sử dụng mô hình Căn bệnh Hà Lan?

Chào bạn,

Có nhiều bài viết trong các nguồn bạn cung cấp có sử dụng hoặc thảo luận về mô hình “Căn bệnh Hà Lan” (Dutch Disease) liên quan đến kiều hối hoặc các luồng vốn nước ngoài khác:

  • Bài viết “The Impact of Remittance on Trade Balance: The Case of Malaysia” đề cập rằng kết quả nghiên cứu của họ cho thấy Malaysia không đối mặt với triệu chứng Căn bệnh Hà Lan bị ảnh hưởng bởi kiều hối. Bài viết này cũng dẫn chiếu đến Corden & Neary (1982) liên quan đến khái niệm bùng nổ ngành và phi công nghiệp hóa trong nền kinh tế nhỏ mở.
  • Bài viết “Kiều hối và tỷ giá hối đoái: Nghiên cứu thực nghiệm tại các thị trường mới nổi” thảo luận về tác động của kiều hối đến tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại, đề cập đến lý thuyết “căn bệnh Hà Lan”. Nó giải thích thuật ngữ này được sử dụng để mô tả hiện tượng tại Hà Lan khi sự phát triển của ngành khai thác khí gas tự nhiên thu hút vốn nước ngoài, làm tăng giá trị đồng nội tệ và giảm khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Nghiên cứu này cũng dẫn chiếu các nghiên cứu thực nghiệm khác tìm thấy bằng chứng về Căn bệnh Hà Lan do kiều hối tại các quốc gia như khu vực Trung Mỹ và Nam Mỹ, Phillipines, El Salvador. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của bài viết này tại 21 nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn 2001-2013 cũng cho thấy kiều hối làm tăng giá trị đồng nội tệ, tạo ra hiện tượng kinh tế “căn bệnh Hà Lan”.
  • Bài viết “Kiểm chứng tác động của kiều hối tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam dựa trên mô hình ARDL” sử dụng mô hình ARDL để nghiên cứu tác động của kiều hối đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Nó đề cập rằng nếu dòng kiều hối vượt qua một ngưỡng nhất định, tác động có thể chuyển hướng tiêu cực do những hệ lụy của “căn bệnh Hà Lan”.
  • Bài viết “Remittances and Competitiveness: A Case Study of Vietnam” tập trung vào tác động của kiều hối lên tỷ giá hối đoái thực hiệu dụng và năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Bài viết này tuyên bố ngay từ đầu rằng kết quả cho thấy Việt Nam đang đối mặt với triệu chứng Căn bệnh Hà Lan bị ảnh hưởng bởi lượng kiều hối lớn. Nó giải thích Căn bệnh Hà Lan là khi dòng vốn lớn làm đồng nội tệ tăng giá, làm giảm khả năng cạnh tranh của khu vực xuất khẩu (ngành hàng giao thương). Bài viết này cũng dẫn chiếu Corden và Neary (1982).
  • Bài viết “Workers’ Remittances and the Real Exchange Rate: A Paradox of Gifts” thảo luận về tác động của kiều hối đối với tỷ giá hối đoái thực. Nó nêu lên mối lo ngại tương tự như những gì được nêu ra bởi các mô hình Căn bệnh Hà Lan hoặc Bùng nổ Tài nguyên, nơi các phát hiện tài nguyên dẫn đến đồng nội tệ tăng giá thực và dịch chuyển nguồn lực từ khu vực giao thương sang khu vực không giao thương.
  • Bài viết “Remittances, Real Exchange Rate and the Dutch Disease in Asian Developing Countries” có tiêu đề trực tiếp nhắc đến Căn bệnh Hà Lan. Bài viết này xem xét liệu các quốc gia đang phát triển ở châu Á có đối mặt với Căn bệnh Hà Lan do kiều hối hay không. Nó dẫn chiếu nghiên cứu của Nguyen Phuc Hien (2017) (Nguồn 4) đã chỉ ra rằng Việt Nam đối mặt với Căn bệnh Hà Lan khi nhận kiều hối lớn. Bài viết này sử dụng khung lý thuyết mô hình Salter-Swan-Corden-Dornbusch để giải thích hiệu ứng Căn bệnh Hà Lan từ các luồng vốn ở các nền kinh tế nhỏ và mở. Nó kết luận rằng các quốc gia đang phát triển được chọn ở châu Á cho thấy triệu chứng Căn bệnh Hà Lan do kiều hối trong dài hạn.
  • Bài viết “Remittances, Dutch Disease, and Competitiveness – A Bayesian Analysis” có tiêu đề trực tiếp nhắc đến Căn bệnh Hà Lan. Nó nghiên cứu khả năng nền kinh tế Pakistan đối mặt với Căn bệnh Hà Lan do kiều hối sử dụng phân tích Bayesian. Nó tìm thấy bằng chứng về cả hiệu ứng chi tiêu và hiệu ứng dịch chuyển nguồn lực, đều là triệu chứng của Căn bệnh Hà Lan, trong cả ngắn hạn và dài hạn.
  • Bài viết “Macroeconomic impact of remittances and the Dutch Disease in a developing country” cũng có tiêu đề trực tiếp nhắc đến Căn bệnh Hà Lan. Mục đích chính của nó là khám phá liệu các diễn biến kinh tế gần đây ở Bangladesh có phải là triệu chứng của Căn bệnh Hà Lan hay không, thông qua tác động của kiều hối đến tỷ giá hối đoái thực. Nghiên cứu này sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số vector (VECM) và kết luận rằng dòng kiều hối đang gây ra tác động tiêu cực lên nền kinh tế Bangladesh thông qua Căn bệnh Hà Lan.
  • Bài viết “Analysis of “Dutch Disease Effects” on Asian Economies” cũng có tiêu đề trực tiếp nhắc đến Căn bệnh Hà Lan. Bài viết này phân tích hiệu ứng Căn bệnh Hà Lan từ sự phong phú tài nguyên thiên nhiên, hỗ trợ nước ngoài (ODA) và kiều hối ở các nền kinh tế châu Á. Nó sử dụng mô hình Vector tự hồi quy (VAR) và dẫn chiếu mô hình Salter-Swan-Corden-Dornbusch.
  • Bài viết “Australia mining boom and Dutch Disease analysis using VAR method” có tiêu đề trực tiếp nhắc đến Căn bệnh Hà Lan. Nó kiểm định tính hợp lệ thực nghiệm của hiệu ứng Căn bệnh Hà Lan ở Australia do bùng nổ khai thác mỏ, sử dụng phương pháp VAR. Nó dẫn chiếu Corden và Neary (1982).
  • Bài viết “Booming sector and De-Industrialisation in a small open economy” của Corden và Neary được dẫn chiếu trong nhiều nguồn khác. Mặc dù các đoạn trích không sử dụng cụm từ “Căn bệnh Hà Lan” nhiều, đây là mô hình lý thuyết nền tảng mô tả hiện tượng bùng nổ ngành hàng hóa xuất khẩu dẫn đến phi công nghiệp hóa thông qua các hiệu ứng dịch chuyển nguồn lực và hiệu ứng chi tiêu.
  • Bài viết “Macroeconomic Consequences of Remittances” thảo luận về Căn bệnh Hà Lan như một trong những cách mà kiều hối có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế. Nó dẫn chiếu nghiên cứu của Acosta, Lartey, và Mandelman (2007) tìm thấy bằng chứng thực nghiệm về hiệu ứng Căn bệnh Hà Lan của kiều hối ở El Salvador bằng cách sử dụng mô hình DSGE và B-VAR. Nó kết luận rằng hầu hết các nghiên cứu cho thấy kiều hối làm tăng giá đồng nội tệ thực, ngụ ý khả năng xảy ra hiệu ứng Căn bệnh Hà Lan.
  • Bài viết “Remittances and the Dutch disease” cũng có tiêu đề trực tiếp nhắc đến Căn bệnh Hà Lan. Nó phân tích hiệu ứng Căn bệnh Hà Lan của kiều hối sử dụng mô hình Cân bằng Tổng thể Ngẫu nhiên Động (DSGE) và phân tích BVAR cho El Salvador. Bài viết này cũng dựa trên mô hình kinh tế phụ thuộc, còn được gọi là mô hình Salter-Swan-Corden-Dornbusch, để phân tích lý thuyết về Căn bệnh Hà Lan.
  • Bài viết “The Economics of Migrants’ Remittances” thảo luận về Căn bệnh Hà Lan trong phần phân tích tác động dài hạn của kiều hối, dẫn chiếu Corden (1984) và Corden và Neary (1982).

Tóm lại, nhiều bài viết trong các nguồn đã sử dụng mô hình Căn bệnh Hà Lan, hoặc ít nhất là thảo luận và kiểm định sự tồn tại của hiện tượng này, trong bối cảnh kiều hối và các luồng vốn khác.

4.3/5 - (7 bình chọn)
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận