Mô hình đường dẫn Path models được tạo thành từ hai phần tử: (1) mô hình cấu trúc structural model (còn gọi là inner model trong PLS-SEM) mô tả mối quan hệ giữa các biến tiềm ẩn và (2) mô hình đo lường measurement models, mô tả mối quan hệ giữa các biến tiềm ẩn và các thang đo của nó (tức là các chỉ số của chúng).
Các mô hình đường dẫn được phát triển dựa trên lý thuyết. Lý thuyết là một tập hợp các giả thuyết liên quan đến hệ thống được phát triển theo phương pháp khoa học có thể được sử dụng để giải thích và dự đoán kết quả. Vì vậy, giả thuyết hypothesis là giả thuyết đơn lẻ, trong khi lý thuyết theories là nhiều giả thuyết được liên kết hợp lý với nhau và có thể được thử nghiệm theo kinh nghiệm. Hai loại lý thuyết được yêu cầu để phát triển các mô hình đường dẫn: lý thuyết đo lường mesurement theory và lý thuyết cấu trúc structural theory. Structural theory xác định cách các cấu trúc có liên quan với nhau trong mô hình cấu trúc, trong khi mesurement theory cho biết từng cấu trúc được đo lường như thế nào
Lý thuyết đo lường Measurement theory
Lý thuyết đo lường xác định cách đo các biến tiềm ẩn. Nói chung, có hai cách khác nhau để đo lường các biến không thể quan sát được. Một cách tiếp cận được gọi là phép đo phản ánh reflective và phương pháp kia là phép đo cấu tạo formative.
Việc xây dựng Y1 và Y2 trong hình trên được mô hình hóa dựa trên mô hình đo lường cấu tạo formative. Lưu ý rằng các mũi tên chỉ hướng từ các biến chỉ báo (x1 đến x3 cho Y1 và x4 đến x6 cho Y2) đến cấu trúc, cho biết mối quan hệ nhân quả (tiên đoán) theo hướng đó. Ngược lại, Y3 trong được mô phỏng dựa trên mô hình đo phản ánh reflective. Với các chỉ số phản ánh, hướng của mũi tên là từ cấu trúc đến các biến chỉ báo, cho thấy giả định rằng biến cấu trúc gây ra phép đo (nói chính xác hơn là hiệp phương sai covariance ) cho các biến chỉ báo. Các phép đo phản ánh reflective có một phần dư error term liên quan đến từng chỉ số, còn dạng formative thì không có. Cuối cùng, lưu ý rằng Y4 được đo bằng cách sử dụng một item đơn chứ không phải là nhiều mục. Do đó, mối quan hệ giữa cấu trúc và chỉ số là không bị suy giảm.
Cách tiếp cận để xây dựng mô hình (tức là, cấu tạo formative so với phản ánh reflective và nhân tố có nhiều items so với với chỉ 1 item) là một yếu tố quan trọng trong việc phát triển các mô hình đường dẫn.
Lý thuyết cấu trúc Structural Theory
Lý thuyết cấu trúc Structural Theory cho thấy các biến tiềm ẩn có liên quan với nhau như thế nào (ví dụ, nó cho thấy các cấu trúc và mối quan hệ đường dẫn giữa chúng trong mô hình cấu trúc) . Vị trí và trình tự của các cấu trúc được dựa trên lý thuyết hoặc kinh nghiệm của nhà nghiên cứu và kiến thức tích lũy. Khi các mô hình đường dẫn được phát triển, trình tự từ trái sang phải. Các biến ở bên trái của mô hình đường dẫn là các biến độc lập và bất kỳ biến nào ở bên phải là biến phụ thuộc. Hơn nữa, các biến bên trái được hiển thị như tuần tự trước và dự đoán các biến ở bên phải. Tuy nhiên, các biến cũng có thể phục vụ như cả biến độc lập và phụ thuộc. Khi các biến tiềm ẩn chỉ phục vụ như là các biến độc lập, chúng được gọi là các biến tiềm ẩn ngoại sinh (Y1 và Y2). Khi các biến tiềm ẩn chỉ dùng làm biến phụ thuộc (Y4) hoặc cả hai biến độc lập và phụ thuộc (Y3), chúng được gọi là biến tiềm ẩn nội sinh. Bất kỳ biến tiềm ẩn nào chỉ có các mũi tên một đầu ra khỏi nó là một biến tiềm ẩn ngoại sinh. Ngược lại, các biến tiềm ẩn nội sinh có thể có các mũi tên một đầu đi vào và ra khỏi chúng (Y3) hoặc chỉ đi vào chúng (Y4). Lưu ý rằng các biến tiềm ẩn ngoại sinh Y1 và Y2 không có các phần dư error term vì các cấu trúc này là các thực thể (các biến độc lập) giải thích các biến phụ thuộc trong mô hình đường dẫn.
- Công thức xác định cỡ mẫu bao nhiêu là phù hợp cho nghiên cứu
- Các lưu ý quan trọng khi dùng mô hình hồi quy thực hiện việc dự báo
- Cách đọc các giá trị variance, covariance, coefficient of correlation trong amos
- Vẽ mô hình nghiên cứu khoa học bằng VISIO
- Cách kết luận giả thiết biến trung gian bằng phần mềm Process Macro